Sách hot
Phù Vân - Hayashi Fumiko
150,000₫
MẶT NẠ ZORRO - Johnston McCulley
74,250₫
99,000₫
CHIẾC PHỄU DA & NHỮNG TRUYỆN KỲ BÍ - ARTHUR CONAN DOYLE
193,500₫
258,000₫
HÒA GIẢI & TRUYỆN NGẮN TUYỂN CHỌN - Shiga Naoya
74,250₫
99,000₫
BỘ BA PHÙ THỦY VÀ QUÁI THÚ ĐÊM - Claribel A. Ortega
112,500₫
150,000₫
Nhà Có Bảy Đầu Hồi - Nathaniel Hawthorne
138,750₫
185,000₫
PHÁP Y TỐNG TỪ - Vương Phương
224,250₫
299,000₫
Chiếc xe kéo ma & truyện ngắn tuyển chọn
93,750₫
125,000₫
Cuộc Phục Hưng Cornell Woolrich
Cornell Woolrich viết ngay sau sự xuất hiện của F. Scott Fitzgerald không lâu. Sức ảnh hưởng của một thời kì rực rỡ và điêu tàn trước cơn khủng hoảng kinh tế những năm 1930 đã được tiếp nối ở Woolrich, nhưng theo một cách khác. Dưới đây là bài viết khá chi tiết về Woolrich của tác giả Steve Powell - một nhà phê bình về văn học trinh thám Anh Mỹ.
Cuộc phục hưng Cornell Woolrich (Steve Powell)
Những tội phạm thiên tài. Những sát nhân điên. Những thiếu phụ thù hận. Các tác phẩm của Cornell Woolrich tràn ngập căng thẳng tâm lý mà độc giả luôn khao khát. Ông được mệnh danh là nhà văn hồi hộp hàng đầu của thế kỷ 20, Edgar Allan Poe của thời đại mình.
Cornell Woolrich là một nhà văn phong phú trong các thể loại tội phạm, kinh dị, noir, và trinh thám, với hơn hai chục tiểu thuyết và hơn hai trăm truyện ngắn, truyện vừa, cùng một số tác phẩm chưa được xuất bản trước khi ông qua đời vào năm 1968. Tuy nhiên, với số lượng lớn tác phẩm được xuất bản bởi nhiều nhà xuất bản khác nhau qua nhiều thập kỷ, quyền sở hữu các câu chuyện của ông đã được chuyển nhượng nhiều lần, kể cả sau khi ông qua đời, tạo ra một mạng lưới phức tạp về vấn đề quyền lợi mà đại diện của gia đình ông phải mất nhiều năm để giải quyết.
Alan Nevins và đồng nghiệp ở Renaissance Literary & Talent đã làm việc không ngừng nghỉ để lần theo và thu hồi quyền sở hữu các tác phẩm và bộ sưu tập đã bị ngưng xuất bản trong nhiều thập kỷ do vấn đề quyền lợi. Hiện họ đang thực hiện một chiến dịch lớn nhằm tái tung các tác phẩm đột phá của Woolrich đến với lớp độc giả mới và cũ thông qua những tập truyện ngắn ít được biết đến của ông. […]
Cuộc đời của Woolrich phức tạp không kém gì những vấn đề về quyền sở hữu tác phẩm của ông. Song thân phụ mẫu của ông ly thân khi ông còn nhỏ, và trong gần như cả quãng tuổi thơ ấy, ông sống ở nhiều nơi tại Mexico cùng cha mình, một kỹ sư lưu động. Theo tiểu sử của Francis Nevins viết về Woolrich, mối quan hệ giữa ông và người cha theo Công giáo sùng đạo không hề êm ấm. Ngay từ ngày ấy, Woolrich đã biết mình muốn trở thành nhà văn. Ông từng rất mê vở opera Madame Butterfly của Giacomo Puccini, đến mức sau này, trong cuốn tự truyện Blues of a Lifetime, ông viết rằng:
"Vở opera đã mang lại một cái nhìn đột ngột, sắc bén về màu sắc và kịch tính, thứ đã trở lại và ảnh hưởng lớn đến tôi khi trở thành nhà văn". - Woolrich
Năm 12 tuổi, Woolrich chuyển đến Nữu Ước sống cùng mẹ và gia đình bà. Ông đặc biệt gần gũi với ông ngoại, người từng dẫn ông đi xem vở Madame Butterfly định mệnh năm nào. Nhờ ông ngoại, Woolrich thời niên thiếu đã được tiếp xúc với nhiều khía cạnh văn hóa Mỹ, bao gồm những cuộc xem phim hàng tuần. Theo Nevins, đây là mối quan hệ gần gũi duy nhất của Woolrich với một người đàn ông, ngoại trừ những năm tháng không mấy hạnh phúc cùng cha ở Mexico. Woolrich sau này đã viết rất nhiều về ảnh hưởng của ông ngoại đối với mình, trong khi hầu như không nhắc đến mẹ.
Năm 1921, Woolrich theo học tại Đại học Columbia (nơi hiện đang quản lý tài sản của ông) và tham gia nhiều khóa học văn chương. Nhưng ông chẳng bao giờ tốt nghiệp. Trong thời gian học, Woolrich mắc chứng nhiễm trùng chân và phải nằm liệt giường sáu tuần, thời điểm ông bắt đầu viết một cách nghiêm túc. Tiểu thuyết đầu tay Cover Charge, lấy cảm hứng từ phong cách của F. Scott Fitzgerald và mang đậm chất thời kỳ Jazz Age, được xuất bản vào năm 1926 khi Woolrich mới 22 tuổi. Trong giai đoạn từ năm 1926 đến 1932, ông viết thêm năm tiểu thuyết khác về thời kỳ này, nhưng sự suy thoái kinh tế khiến Jazz Age dần biến mất, và những tác phẩm này không đủ để ông xây dựng một sự nghiệp văn học vững chắc. Cuốn tiểu thuyết thứ hai Children of the Ritz đã mang lại cho ông 10.000 đô la trong một cuộc thi tiểu thuyết do tạp chí College Humor và hãng phim First National Pictures tổ chức, mở ra cơ hội cho Woolrich làm biên kịch tại Los Angeles để chuyển thể tác phẩm của mình.
Những năm ngắn ngủi ở Hollywood đã cho Woolrich cơ hội khám phá bản thân. Nevins kể lại rằng cuộc hôn nhân ngắn ngủi với con gái của một nhà tiên phong điện ảnh đã tan vỡ sau khi cô vợ này phát hiện một cuốn nhật ký, nơi Woolrich ghi lại lối sống phóng túng của mình với tư cách một người đồng tính nam. Woolrich cực kỳ kín đáo và xấu hổ về xu hướng tính dục của mình, điều đã ám ảnh ông suốt cuộc đời và thậm chí đẩy ông vào con đường nghiện rượu.
Nghiệp biên kịch của Woolrich đã không thành, thế là ông trở về Nữu Ước năm 1931, ở tuổi 27, để sống cùng mẹ tại khách sạn tồi tàn Hotel Marseilles. Vài năm sau, câu chuyện trinh thám đầu tiên của ông, “Death Sits in the Dentist’s Chair,” xuất hiện trên tạp chí Detective Fiction Weekly vào tháng 8 năm 1934, mở đầu cho sự nghiệp sáng tác đầy năng suất với hơn hai trăm truyện ngắn và truyện vừa được đăng trên hàng chục tạp chí văn học bình dân trong vài thập kỷ tiếp theo. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, “It Had to be Murder” (Dime Detective Magazine, 1942), đã được chuyển thể thành bộ phim kinh điển Rear Window của Alfred Hitchcock năm 1954, với sự tham gia của James Stewart và Grace Kelly.
Tiểu thuyết hồi hộp đầu tiên của Woolrich, The Bride Wore Black (Cô dâu đen), đã tạo nên tiếng vang lớn trong thể loại này khi được Simon & Schuster xuất bản vào năm 1940. Tác phẩm nhận được nhiều lời khen ngợi nhờ sự kinh hoàng mà độc giả cảm nhận được, qua một nhân vật cô dâu trả thù cho chàng hôn phu bị sát hại ngay trong ngày cưới.
Đây là cuốn đầu tiên trong loạt tiểu thuyết “Black Series,” bao gồm sáu tác phẩm được xuất bản trong tám năm sau đó. Các tiểu thuyết trong loạt này, bao gồm The Black Curtain (1941), Black Alibi (1942), The Black Angel (1943), The Black Path of Fear (1944), và Rendezvous in Black (1948), đều là đỉnh cao của thể loại tiểu thuyết noir tội phạm. Woolrich có khả năng đặc biệt trong việc xây dựng những câu chuyện mang đến cảm giác sợ hãi sâu sắc và áp đảo cho cả nhân vật và độc giả. Điều này cũng được thể hiện trong nhiều tác phẩm nổi tiếng khác của ông, như Phantom Lady (1942), Deadline at Dawn (1944) (Hạn chót lúc bình minh - nd.), Night Has a Thousand Eyes (1945) (Đêm ngàn mắt - nd.), Waltz into Darkness (1947) (Theo em vào bóng đêm - nd.), I Married a Dead Man (1948) (Kết hôn với người chết), và Savage Bride (1950).
Woolrich sáng tác nhiều đến mức ông phải sử dụng bút danh như William Irish và George Hopley để các tác phẩm của mình có thể xuất hiện trên những tạp chí đối thủ. Nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn của ông đã được chuyển thể thành phim bởi các hãng như Paramount, Universal, và RKO. Một trong những bộ phim nổi tiếng nhất, bên cạnh Rear Window, là bản chuyển thể của đạo diễn François Truffaut với phong cách French New Wave từ Cô dâu đen, có tựa đề La Mariée Était en Noir, công chiếu năm 1968, đúng năm Woolrich qua đời. Hàng chục truyện ngắn của ông cũng được chuyển thể thành các tập phim phát sóng trên radio và truyền hình, bao gồm Alfred Hitchcock Presents, Suspense, và Molle Mystery Theatre.
Những năm cuối đời của Woolrich kỳ lạ không kém thời thơ ấu. Mẹ ông qua đời năm 1957, và trong những năm sau đó, ông sống một mình. Chứng nhiễm trùng chân mà ông mắc phải từ những năm 20 tuổi tái phát và không được điều trị, dẫn đến hoại tử. Các bác sĩ buộc phải cắt bỏ chân của ông, và Woolrich qua đời không lâu sau đó vào năm 1968, ở tuổi 64.
Sau khi qua đời
Nhiều năm sau khi Woolrich qua đời, tác phẩm của ông trở thành trung tâm của một vụ án tại Tòa án Tối cao liên quan đến quyền sở hữu câu chuyện “It Had to be Murder” và bộ phim chuyển thể Rear Window, giữa Sheldon Abend, một đại diện văn học, và James Stewart (Stewart v. Abend, 1990). Theo hợp đồng, Woolrich có nghĩa vụ gia hạn bản quyền câu chuyện sau 28 năm (theo luật bản quyền đã được sửa đổi sau này) và chuyển nhượng quyền sở hữu cho bên nắm bản quyền phim. Tuy nhiên, khi Sheldon Abend mua lại phần lớn tài sản của Woolrich vào năm 1971, ông đã từ chối chuyển nhượng bản quyền của “It Had to be Murder” cho bên nắm quyền sở hữu phim theo hợp đồng gốc của Woolrich. Khi Rear Window được chiếu trên truyền hình, Abend kiện Stewart vì vi phạm bản quyền.
Trong quyết định 6-3, Tòa án Tối cao đã đứng về phía Abend, phán quyết rằng người thừa kế của tác giả có quyền ngăn chặn việc tiếp tục phân phối và xuất bản một tác phẩm phái sinh (trong trường hợp này là bộ phim chuyển thể), vì quyền kiểm soát tác phẩm gốc sẽ được trả lại cho tác giả hoặc người thừa kế khi gia hạn bản quyền. Phán quyết này, bảo vệ quyền lợi của tác giả hoặc người thừa kế khỏi việc bị tước đi giá trị tác phẩm gốc, đã gây ra tác động lớn đối với ngành công nghiệp điện ảnh. Tuy nhiên, vì quyết định chỉ áp dụng đối với bản quyền tại Hoa Kỳ, nó để lại nhiều thách thức không rõ ràng về quyền sở hữu quốc tế, do các quyền này chưa từng bị tranh chấp ở nước ngoài. Nhiều hãng phim đột nhiên mất quyền sở hữu bản quyền nội địa đối với các tác phẩm chuyển thể, trong khi vẫn giữ quyền sở hữu ở nước ngoài, gây ra những phức tạp lớn trong toàn ngành và làm tăng thêm sự rối rắm liên quan đến tài sản của Woolrich.
Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Woolrich qua đời, và trong những năm đó, các vấn đề bản quyền đa tầng đã khiến nhiều tác phẩm của ông không còn được xuất bản. Sau nhiều năm nỗ lực gian khổ để truy tìm và khôi phục quyền sở hữu về lại cho gia đình Woolrich, đội ngũ Renaissance cùng các nhà xuất bản đánh giá cao giá trị tác phẩm của ông đã tìm cách đưa những câu chuyện và tiểu thuyết được yêu thích của ông trở lại cả dạng in ấn lẫn kỹ thuật số. Ngoài các bộ sưu tập Literary Noir, An Obsession with Death and Dying, và loạt hai phần Black Series, Renaissance cũng đã phát hành nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết riêng lẻ của Woolrich trên các nền tảng xuất bản kỹ thuật số. Đây là thời điểm thích hợp để tái giới thiệu những tác phẩm đột phá của Woolrich đến thế giới. Các tác phẩm này hiện có trên các nền tảng: Amazon (Kindle), Barnes & Noble (Nook), Kobo, và iBooks.
Mỗi câu chuyện trong các tập này đều hấp dẫn, kịch tính, u ám và hài hước. Tóm lại, chúng hội tụ mọi điều mà những người yêu thích thể loại noir mong đợi từ văn phong của Cornell Woolrich.